Cá rô phi là loài được nuôi nhiều thứ hai trên thế giới sau cá chép (Cyprinus carpio) và có thể trở thành loài cá được nuôi nhiều nhất trên toàn thế giới trong vài thập kỷ nữa. Cá rô phi cứng cáp, sinh sản dễ dàng, ăn tạp, sinh trưởng nhanh và chất lượng thịt ngon. Tôm càng xanh là đối tượng nuôi được sản xuất ở nhiều nước. Tôm càng xanh rất dễ thích nghi, tăng trưởng nhanh và kháng bệnh và thích nghi với việc nuôi ghép với các loài cá.

Hệ thống công nghệ Biofloc (BFT) hỗ trợ sản xuất nuôi trồng thủy sản thâm canh mà không cần hoặc thay nước tối thiểu. Bioflocs có đặc điểm dinh dưỡng cao với hàm lượng protein từ 28 đến 40% và sự cân bằng đầy đủ của các axit amin, axit béo, khoáng chất và vitamin. Bioflocs là nguồn thức ăn bổ sung cho cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus) và tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii). Cá rô phi, bằng cách tiêu thụ và đồng hóa protein biofloc, có thể đáp ứng tới 25% nhu cầu dinh dưỡng, do đó làm giảm mức protein cần thiết trong thức ăn thủy sản.

Công nghệ hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) dựa trên việc tái chế nước bằng cách sử dụng các bộ lọc cơ học và sinh học, hỗ trợ sản xuất mật độ cao đối với các loài nuôi trồng thủy sản khác nhau. Kết quả sản xuất RAS đối với cá rô phi hoặc tôm càng xanh là khả quan, nhưng vốn và chi phí vận hành có thể cao. Nói chung, nuôi cá rô phi trong hệ thống BFT được cho là tiết kiệm chi phí hơn so với hệ thống RAS.

Nuôi ghép là hệ thống sản xuất có hai hay nhiều loài thủy sản trong cùng một vùng nước. Kỹ thuật này giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và lợi nhuận. Nuôi cá và tôm có thể cải thiện sự cân bằng sinh thái của ao bằng cách giúp ngăn chặn tảo nở hoa ồ ạt, giảm tác động tiềm ẩn đối với môi trường. Nuôi cá rô phi vằn và tôm càng xanh trong nuôi ghép có thể rất hiệu quả, vì những loài này chiếm các hốc sinh thái riêng biệt và tiêu thụ thức ăn tự nhiên.

Bài báo này – điều chỉnh và tóm tắt từ tài liệu gốc (H. Hisano và cộng sự. 2019. – Đánh giá khả năng tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn, thành phần biofloc và chất lượng nước của cá rô phi vằn trong nuôi đơn và nuôi ghép với tôm càng xanh trong BFT và RAS trong 30 ngày.

Thiết lập nghiên cứu

Thí nghiệm được tiến hành tại Phòng thí nghiệm Laboratório de Ecossistemas Aquáticos, Embrapa Meio Ambiente, Jaguariúna, SP, Brazil. Các bể thí nghiệm, dung tích 150 lít được thiết lập trong một hệ thống tuần hoàn độc lập có sục khí bổ sung, nhiệt độ nước không đổi ở 26,0 độ C, và chu kỳ quang 12 giờ sáng và 12 giờ tối. Để đẩy nhanh quá trình phát triển biofloc trong các bể, nước từ một hệ thống BFT khác đã được sử dụng để cấy vào các bể thí nghiệm 10 ngày trước khi bắt đầu thí nghiệm.

Tất cả cá rô phi vằn đực (n = 128 con; trọng lượng 7,29 ± 0,67 gam) được cân riêng và phân bố ngẫu nhiên trong 16 bể thí nghiệm với 8 con mỗi bể. Tôm càng xanh (n = 96; 0,50 ± 0,09 gam) được phân bố trong tám bể thí nghiệm với 12 con mỗi bể trong thí nghiệm nuôi ghép. Thiết kế thí nghiệm hoàn toàn ngẫu nhiên trong thiết kế giai thừa 2 × 2 (BFT và RAS so với nuôi đơn và nuôi ghép) với bốn lần lặp lại cho mỗi thí nghiệm.

Chế độ ăn thử nghiệm được xây dựng để chứa 28% protein tiêu hóa (DP) và 3100 kcal/kg năng lượng tiêu hóa (DE). Trong giai đoạn thử nghiệm, các con cá và tôm được cho ăn ba lần một ngày cho đến khi cảm thấy no trong khoảng thời gian 30 ngày. Khi kết thúc thử nghiệm tăng trưởng, cá và tôm được nhịn ăn trong 24 giờ trước khi được cân đo và đánh giá từng cá thể. Mật đường mía được bổ sung trong quá trình thử nghiệm như một nguồn carbon với tỷ lệ carbon-nitơ 12: 1 khi cần thiết.

Kết quả và thảo luận

Kết quả của nghiên cứu cho thấy các biến chất lượng nước nằm trong giới hạn bình thường đối với cá rô phi và tôm càng xanh trong suốt quá trình nghiên cứu và có ảnh hưởng đáng kể của hệ thống nuôi đến tăng trọng, chuyển đổi thức ăn rõ ràng và tỷ lệ hiệu quả protein.

Tăng trọng trung bình và chuyển đổi thức ăn ​​đối với cá rô phi trong nuôi đơn (30,04 gam và 1,39) và trong nuôi ghép (36,44 gam và 1,27) trong hệ thống BFT tốt hơn trong nuôi đơn (23,64 gam và 1,74) và trong nuôi ghép (24,14 gam và 1.61) trong hệ thống RAS. Tăng trọng và tỷ lệ sống của tôm càng xanh ở hệ thống BFT cao hơn (0,43 gam và 87%) so với hệ thống RAS (0,26 gam và 79%).

Cá rô phi được nuôi trong điều kiện BFT nuôi đơn và nuôi ghép cho thấy sự gia tăng vượt trội về trọng lượng và chuyển đổi thức ăn, AFC [thức ăn khô cung cấp (gam)/tăng sinh khối (gam)] so với RAS. Chúng tôi quan sát thấy sự cải thiện về tăng trọng là 27,07% đối với nuôi đơn và 50,95% đối với nuôi ghép đối với cá rô phi trong điều kiện BFT, khi so sánh với điều kiện RAS. Những kết quả này tương tự hoặc tốt hơn những kết quả được báo cáo bởi nhiều nhà nghiên cứu khác về sự cải thiện từ 21 đến 22% tăng trọng của cá rô phi trong hệ thống BFT so với điều kiện RAS.

Chế độ ăn thử nghiệm tương tự (28% protein tiêu hóa, DP; và 3100 kcal/kg năng lượng tiêu hóa, DE) và quản lý thức ăn được sử dụng trong cả hai điều kiện thử nghiệm, BFT và RAS.

Nhưng biofloc ảnh hưởng tích cực đến sự tăng trọng của cá rô phi khi so sánh với RAS (nơi thủy sản nuôi được cho ăn hoàn toàn bằng chế độ ăn thử nghiệm), hỗ trợ giá trị dinh dưỡng của biofloc cho cả hai loài. Các nhà nghiên cứu khác trước đây đã báo cáo rằng, đối với cá rô phi, biofloc có thể đóng góp khoảng 25% nhu cầu protein của cá.

Tỷ lệ hiệu quả của protein, PER [tăng trọng chia cho lượng protein thực phẩm cụ thể trong giai đoạn thử nghiệm] bị ảnh hưởng bởi số lượng và chất lượng của protein trong khẩu phần. Chất lượng dinh dưỡng của biofloc được phản ánh bởi rất nhiều loại vi sinh vật của nó – chẳng hạn như thực vật phù du, vi khuẩn, luân trùng, động vật chân đốt và động vật nguyên sinh – cung cấp hàm lượng protein cao và sự cân bằng đầy đủ giữa các axit amin, axit béo, khoáng chất và vitamin. PER tốt nhất cho cá rô phi trong điều kiện BFT trong nghiên cứu của chúng tôi được hưởng lợi từ đóng góp dinh dưỡng biofloc.

Tôm nuôi trong điều kiện BFT tăng trọng lượng cao hơn 65,4% so với tôm trong điều kiện RAS. Các tác giả khác nghiên cứu một loài tôm có liên quan, M. amazonicum, báo cáo không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của cá rô phi vằn trong nuôi ghép trong hệ thống RAS. Tuy nhiên, trong thử nghiệm của chúng tôi, việc nuôi ghép cá rô phi và tôm càng xanh đã cải thiện sự tăng trưởng của cả hai loài trong cả hai điều kiện thử nghiệm là BFT và RAS.

Tương tự như kết quả quan sát được đối với cá rô phi, sự tăng trọng được cải thiện của tôm trong hệ thống BFT có liên quan đến việc tiêu thụ biofloc làm thức ăn bổ sung. Một số nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng các đàn vi sinh vật có thể làm giảm lên đến 20% chi phí thức ăn thủy sản đối với một số loài.

Triển vọng

Trong nghiên cứu của chúng tôi, cá rô phi vằn thường hoạt động tốt hơn trong điều kiện BFT so với điều kiện RAS, cả trong nuôi đơn và nuôi ghép với tôm càng xanh; và tôm cho thấy sự tăng trưởng và tỷ lệ sống được cải thiện trong điều kiện BFT.

Việc nuôi ghép các loài này trong hệ thống BFT có nhiều tiềm năng, vì biofloc có thể cải thiện sự tăng trưởng của cả hai loài – cả hai loài đều có khả năng bắt giữ và đồng hóa các hạt biofloc ở dạng huyền phù – và giảm chi phí cho cá và tôm ăn. Nuôi ghép cá rô phi vằn và tôm càng xanh trong BFT nên được coi là một mô hình nuôi trồng thủy sản tiềm năng thân thiện với môi trường.

Nguồn: tongcucthuysan.gov.vn

TIN KHÁC